Các công ty vỡ nợ như thế nào

     Cách nhìn thường gặp nhất về vỡ nợ là một công ty vỡ nợ khi không tạo ra đủ dòng tiền tự do để trả nợ. Dòng tiền một công ty tạo ra được gọi là “dòng tiền tự do” hay FCF. FCF được tạo ra từ những hoạt động và sau những đầu tư cần thiết để duy trì hoạt động. Định nghĩa chính xác của FCF là:

FCF (sau thuê) = NoPaT + khâu hao – AOWC – đầu tư

     Trong phương trình này, NoPaT là lợi nhuận hoạt động thực sau thuế, không bao gồm bất kỳ doanh thu hay chi phí lãi nào. owe là vốn hoạt động:

owe = các khoản phải thu + hàng tổn kho + các khoản phải chi + các tài sản khác liên quan đến hoạt động – những khoản nợ liên quan đến hoạt động

công ty vỡ nợ

     Cuối cùng, đầu tư là giá trị tối thiểu cần thiết để duy trì công ty trong tình trạng tốt để tiếp tục hoạt động. FCF có thể là số âm hoặc dương và là dòng tiền có sẵn vẫn còn cho người cho vay và cổ đông. FCF âm không có nghĩa là vỡ nợ kể cả cho một công ty i dùng đòn bẩy. Nó có nghĩa là công ty cần huy động thêm nợ hay cổ phân trong khoảng thời gian.

     Cách nhìn dòng tiền về vỡ nợ không đủ để mô phỏng vỡ nợ. Nêu dòng tiền không đủ lớn để trả nợ trong một khoảng thời gian hay là số âm, nợ mới hoặc cổ phân cần được huy động. Hơn nữa, FCF tương lai có thể đủ cao để trả cả nợ hiện tại và nợ bổ sung. Điều quan trọng là mô hình dòng tiền về vỡ nợ có thiếu sót vì nó không xem xét toàn bộ các dòng tiền và có khoảng thời gian giới hạn. Các dòng tiền không phải là một tiêu chuẩn quan trọng với khả năng thanh toán vì sự thiều hụt tiền mặt tạm thời không gây ra vỡ nợ miễn là có khả năng cải thiện trong tương lai. Sự thiếu hụt dòng tiền liên tục khiến cho vỡ nợ có khả năng xảy ra cao hơn, nhưng thiếu hụt tạm thời thì không.

     Giá trị kinh tế của công ty hay giá trị tài sản của công ty là giá trị hiện tại của các dòng tiền tự do tương lai với chi phí vốn. Theo lý thuyết tài chính doanh nghiệp, giá trị công ty là giá trị chiết khâu của tất cả FCF tương lai với chi phí vốn bình quân gia trọng (Wacc).

     Nền tảng được đặt ra trong bài viết nổi tiếng Modigliani-Miller 1958. Những phân mở      rộng bao gồm chi phí phá sản và những nhân tố khác ví dụ như chi phí đại lý (chi phí có một đại lý quản lý công ty thay mặt cho cổ đông) v.v. Do đó, ta có phương trình sau:

                    Giá trị công ty = giá trị tài sản = giá trị cổ phần + giá trị nợ

     Merton (1973) giới thiệu khái niệm vỡ nợ kinh tế. Vỡ nợ xảy ra khi giá trị công ty, bao gồm toàn bộ những dòng tiền FCF tương lai, chiết khấu cho tới thời điểm hiện tại, thấp hơn mệnh giá của những khoản nợ. Cách nhìn này có vẻ như một sự mâu thuẫn vì theo định nghĩa, giá trị tài sản bằng giá trị cổ phân và giá trị nợ, do đó không thể thấp hơn giá trị nợ. Mâu thuẫn được giải quyết nếu ghi nhớ mệnh giá của nợ, khoản phải trả, và giá trị kinh tế của nợ là khác nhau. Cả giá trị cổ phân và giá trị nợ đều giảm khi rủi ro tăng, nhưng nợ phải trả trong khoảng thời gian thì không thay đổi. Do đó, mệnh giá của nợ rủi ro, không phải là giá trị kinh tế của nó, gây ra vỡ nợ.


Trọng số rủi ro và danh mục đầu tư bán lẻ

          Trọng số rủi ro

        Trong cách tiếp cận tiêu chuẩn, trọng sống rủi ro được phân loại theo hạng mục tài sản. Cách tiếp cận này nhạy với rủi ro hơn nhiều so với Hiệp Ước Basel 1. Nó bao gồm một trọng số rủi ro 50% cho doanh nghiệp và 150% cho những đối tượng xếp hạng thấp.

         Những nguy cơ không được xếp hạng có trọng số 100%. Trọng số 150% phục vụ một so hạng mục tài sản. Cách tiếp cận tiêu chuẩn không cho phép trọng số thay đổi với kỳ hạn trừ trường hợp những tài sản ngắn hạn với các đối tượng ngân hàng với xếp hạng tầm trung, trọng số giảm từ 50% xuống 20% và từ 100% xuống 50% tùy vào xếp hạng.

        Phần lớn các doanh nghiệp không có xếp hạng ngoài. Lý do là người đi vay không phát hành nợ niêm yết nhưng không nhất thiết nghĩa là uy tín tín dụng của họ thấp hơn. Trọng số rủi ro 100% được dùng cho những đối tượng không được xếp hạng. Bời vì chi phí vốn của những đối tượng có xếp hạng thấp cao hơn với những đôi tượng không xếp hạng, đây có thể coi là một điểm không nhất quán. Hiệp Ước quy định rằng những nhà giám sát quốc gia nên linh hoạt khi điều chỉnh trọng số này.

Trọng số rủi ro

         Danh mục đầu tư bán lẻ

        Những nguy cơ bán lẻ cũng được xử lý trong cách tiếp cận từ trên xuống, xử lý như một tập hợp thay vì các nguy cơ đơn lẻ như đối với nguy cơ doanh nghiệp. Nêu danh mục đầu tư bán lẻ được phân tán hóa, trọng số rủi ro là 75%. Cho vay hoàn toàn được đảm bảo bởi thếchấp bất động sản nhà ở có trọng số rủi ro 35%. Thế chấp bằng bất động sản thương mại có rủi ro 100%.

       Phần không được bảo đảm của bất kỳ khoản vay nào (ngoài vay thế chấp nhà ở) quá hạn hơn 90 ngày có trọng số rủi ro 150% hoặc 100% tùy theo mức độ cung ứng.



Từ khóa tìm kiếm nhiều: rủi ro

Những nguyên tắc chung cho thế chấp CRM

        Hội đồng đã áp dụng một định nghĩa thế chấp hợp lệ rộng hơn so với Hiệp Ước 1988 trong cách tiếp cận tiêu chuẩn của Basel 2. Ngân hàng có thể công nhận những tài sản sau là thế chấp:
  • tiền mặt

  • những cổ phiếu nợ nhất định được phát hành bởi quốc gia, những tổ chức trong khu vực công, ngân hàng, công ty chứng khoán và doanh nghiệp

  • những cổ phiếu nhất định được trao đổi trên các sàn được công nhận

  • những cổ phần trong quỹ tương hỗ

  • vàng
         Có một sàn vốn ký hiệu IV,bởi vì giao dịch có thế chấp không bao giờ không có rủi ro (trừ với tiền mặt). Giá trị thông thưởng của w là 0,15.

        Basel 2 công nhận thế chấp chỉ nếu giá trị của nó không phụ thuộc vào uy tín tín dụng của đối tượng. Chất lượng tín dụng của người đi vay và giá trị của vật thế chấp không thê có tương quan dương. Ví dụ, cổ phiếu phát hành bởi chính người đi vay sẽ tạo ra rất ít sự bảo hộ và không hợp lệ.

        Trong vay mượn cổ phiếu, người cho vay tiền mặt nắm giữ cổ phiếu làm thế chấp, giá trị của cổ phiếu có thể giảm xuống dưới khoản tiền cho vay ngay cả nếu ban đầu, giao dịch có thế chấp quá cao.

nguyên tắc chung cho thế chấp CRM

       Những luật giám sát cho phép bù trừ nguy cơ với giá trị vật thế chấp, chịu chi phổi bời ‘haircuts”. Haircuts là phần trăm giá trị do những thay đổi thời gian của nguy cơ và thế chấp và do chênh lệch kỳ hạn và tiền tệ giữa nguy cơ và thế chấp. Có hai loại haircuts: haircuts giám sát tiêu chuẩn và những ước lượng của các ngân hàng về độ biến động của vật thế chấp.

       Như một quy luật chung, phần được đảm bảo bới giá trị điều chỉnh theo haircut của vật thế chấp có trọng số rủi ro ứng với công cụ thế chấp. trọng số rủi ro này có sàn 20% trừ trong một số trường hợp nhất định, ví dụ khi thế chấp là tiền mặt hay khi nó là khoản vay của một quốc gia hay cổ phiếu PSE (tổ chức khu vực công), khi đó trọng số rủi ro là 0%.

       Phần còn lại của khoản nợ không có đảm bảo và được chỉ định trọng số rủi ro của đối tượng đó. Khi có nhiều thếchấp, nguy cơ được chia thành nhiều phần, mỗi phần được chi định một loại CRM.

        Giảm thiểu rủi ro tín dụng bị điều phôi bởi hai cách tiếp cận: ‘đơn giản’ và ‘toàn diện’. Theo cách tiếp cận đơn giản, ngân hàng thay thế trọng số rủi ro của vật thế chấp bằng họng số rủi ro của đối tượng, đối với phần có thế chấp của nguy cơ (với sàn 20%). Điều này tương tự như Hiệp Ước 1988.

       Cách tiếp cận toàn diện cho phép bù trừ nguy cơ bằng thế chấp. Các ngân hàng có thể giảm nguy cơ bằng giá trị của thế chấp. Họ có thể dùng một trong hai cách tiếp cận trên trong sổ ngân hàng, nhưng số giao dịch thì chỉ dùng cách tiếp cận toàn diện. Thế chấp một phần cũng được công nhận. Chỉ có cách tiếp cận toàn diện cho phép chênh lệch kỳ hạn giữa nguy cơ cơ sở và vật thế chấp.



Từ khóa tìm kiếm nhiều: cac ngan hang viet nam

Giảm thiểu rủi ro tín dụng

       Các quy định giảm thiểu rủi ro tín dụng giống nhau với mọi cách tiếp cận và bao gồm một số lựa chọn. Các công cụ giảm thiểu rủi ro tín dụng được gọi là CRM theo thuật ngữ Basel 2. CRM nói về những đặc điểm của từng giao dịch có thể làm giảm rủi ro tín dụng của giao dịch đó. Những đảm bảo hợp lệ bao gồm:
  • Thế chấp hợp lệ: tiền mặt, cổ phiếu

  • Đảm bảo của bên thứ ba

  • Phái sinh tín dụng
        Các cách tiếp cận khác nhau:
  • Tiêu chuẩn: trọng số rủi ro tiêu chuẩn

  • Cơ sở: tỷ lệ phục hồi tiêu chuẩn là 55% với nợ cao cảp và 25% với nợ cảp thấp

  • Cao cảp: tỷ lệ hồi phục được ngân hàng quyết định
        Các quy định áp đặt những tiêu chuẩn hoạt động tối thiều bời VI quản lý yếu kém những rủi ro hoạt động bao gồm rủi ro pháp lý có thể làm giảm độ tin cậy của những công cụ giảm rủi ro đó. Để việc giảm thiểu rủi ro được công nhận cần phải đáp ứng một số tiêu chuẩn: giao dịch phải được ghi chép đầy đủ, các đảm bảo và phái sinh tín dụng phải mang tính ràng buộc và có thể thi hành pháp lý. Hơn nữa, các ngân hàng phải nắm giữ tài sản để đối phó với những rủi ro do sự chênh lệch giữa phòng hộ rủi ro tín dụng nguy cơ tương ứng. Đó có thể là chênh lệch trong giá trị, kỳ hạn hay tiền tệ giữa nguy cơ và công cụ phòng hộ.

Giảm thiểu rủi ro tín dụng

          Giảm rủi ro tín dụng: đảm bảo và phái sinh tín dụng

       Đế một ngân hàng có thể được cứu trợ bằng phái sinh tín dụng hay đảm bảo, phòng hộ tín dụng phải trực tiếp, rõ ràng, không thể hủy bỏ và vô điều kiện.

       Cách tiếp cận thay thế trong Hiệp Ước 1988 áp dụng với đảm bảo và phái sinh tín dụng nhưng có một sàn vốn IV. Nêu công nhận hoàn toàn khả năng thực thi của đảm bảo, cách tiếp cận này thay thếrủi ro của người đi vay bằng thay thế của người đảm bảo.

       Hiệp Ước mới công nhận rằng các ngân hàng chỉ chịu thua lỗ trong các giao dịch được đảm bảo khi cả người đi vay và người đảm bảo đều vỡ nợ. Cách tiếp cận “vỡ nợ kép” này làm giảm rủi ro tín dụng nêu sự tương quan giữa xác suất vỡ nợ của người mang nợ và người đảm bảo là thấp.

         Giảm rủi ro tín dụng: xử lý thế chấp

       Những quy định CRM đối với thế chấp phức tạp hơn đối với đảm bảo bên thứ ba bởi vì một nguy cơ được chia thành phần có thế chấp và phần còn lại. Hơn nửa, sự phân tách này phụ thuộc vào haircuts để đo lường số lượng được thế chấp quá cao. Phép tính haircuts bị chi phối bởi một số quy tắc. Cuối cùng, trọng số rủi ro và LGD cho phần có thế chấp khác với cho phần không có thế chấp.



Từ khóa tìm kiếm nhiều: các ngân hàng việt nam

Cấu trúc khung dựa trên xếp hạng nội bộ IRB

       Cách thức IRB dựa trên xếp hạng nội bộ do ngân hàng chỉ định cho những đối tác. Chi phí vốn được tính từ những hàm số trọng số rủi ro ứng với mỗi danh mục đầu tư hay hạng mục tài sản. Cung ứng cho thua lỗ dự đoán được cho phép và chi phí vốn phải cao hơn thua lỗ dự đoán. Để được phép dùng cách thức dựa trên xếp hạng nội bộ (IRB) cần có sự chấp thuận của cơ quan giám sát.

       Với mỗi hạng mục tài sản được đề cập trong khung cảu trúc IRB, có ba nhân tố chính:
  • Các thành phần rủi ro: ước lượng các tham số rủi ro do ngân hàng cung cấp, một số ước lượng để phục vụ việc giám sát. Các thành phần rủi ro bao gồm xác suất vỡ nợ (DP), nguy cơ vỡ nợ (EAD), thua lỗ khi vỡ nợ (LGD), kỳ hạn thức (M) và các tham số khác ẩn trong hàm trọng số rủi ro.

  • Các hàm trọng số rủi ro: đây là công cụ để biến đổi các thành tố rủi ro thành những tài sản có trọng sốrủi ro và yếu cầu vốn. Có nhiều hàm tùy vào hạng mục tài sản.

  • Yếu cầu tôi thiểu: những tiêu chuẩn tối thiểu một ngân hàng phải đáp ứng để có thế sử dụng cách tiếp cận IRB cho một hạng mục tài sản nhất định
xếp hạng nội bộ IRB

       Với danh mục đầu tư bán lẻ, không có cách tiếp cận cơ sở, chỉ có thể là tiêu chuẩn hoặc cao cấp. Theo hai cách tiếp cận đó, với những nguy cơ bán lẻ, ngân hàng phải cung cảp ước lượng DP, LGD và EAD của họ. Với hạng mục tài sản này, cách tiếp cận cơ sở và cao cấp là giống nhau.

       Với những danh mục đầu tư không bán lẻ, theo cách tiếp cận cơ sở, các ngân hàng cung cấp ước lượng DP của họ và dựa trên ước lượng giám sát của những thành phần rủi ro khác. Theo cách tiếp cận cao cấp, ngân hàng ước lượng DP, LGD, EAD và M, và phải đảm bảo đáp ứng những tiêu chuẩn tối thiểu. Với cả hai cách tiếp cận, ngân hàng luônphải dùng hàm trọng số rủi ro để tính vốn yêu cầu.

        Do đó, cách tiếp cận cao cấp dựa vào những quy tắc đơn giản hơn cách tiếp cận cơ sở vì những ước lượng của ngân hàng được cho phép, trong khi cách tiếp cận cơ sở đòi hỏi kết họp các quy tắc. Theo cách tiếp cận cơ sở, ngân hàng phải đưa ra ước lượng DP ứng với điểm của từng người đi vay, nhưng những thành tố khác như LGD, EAD và M được tính toán theo luật định.

        Hiệp Ước Basel 2 liệt kê một số “trọng số rủi ro tiêu chuẩn”, hay BRW. Hàm dựa vào xác suất vỡ nợ (DP). Ví dụ tiếp theo nói tới trường hợp cụ thể của một tài sản 3 năm với  những xác suất vỡ nợ khác nhau và LGD 50% (bảng 20.3). Ba điểm tiêu biểu chỉ ra độ nhạy của trọng số rủi ro với xác suất võ nợ hàng năm. Với DP = 0,7%, BRW là 100% và trọng sốrủi ro tối đa là 625% cho DP = 20%. Giá trị này là giới hạn cho mọi kỳ hạn và xác suất vỡ nợ. Trọng số rủi ro với thay đổi ứng với những DP khác nhau nhạy hơn trọng số trong cách tiếp cận tiêu chuẩn, chi trong khoảng 20% tới 150% cho mọi kỳ hạn dài hơn một năm.



Từ khóa tìm kiếm nhiều: rui ro