Nội dung Hiệp Ước Basel mới

         Hiệp Ước Basel mới đặt ra những quy tắc mới để chi phí vốn rủi ro tín dụng nhạy cảm với rủi ro hơn, thừa nhận các hình thức giảm bớt rủi ro tín dụng, cải tiên những phép đo rủi ro tín dụng trong Hiệp Ước Basel 1 trước đó, bổ sung những yếu cẩu về vốn với rủi ro hoạt động và trình bày chi tiết những “trụ” về giám sát và kỷ luật thị trường. Hiệp Ước mới không đơn giản với nhiều cách tiếp cận tùy theo nhiều hạng mục tài sản và bổ sung nhiều cách tiếp cận về làm giảm rủi ro tín dụng, cho vay chuyên dụng và chứng khoán hóa.

         Hiệp Ước mới xác lập chi phí vốn cho rủi ro tín dụng và rủi ro hoạt động. Nó bao gồm rủi ro lãi suất của sổ sách ngân hàng trong Trụ 2 (quá trình giám sát kiểm tra), thay vì áp đặt những yếu cầu vốn.

        Hiệp Ước mói tạo ra một khung cảu trúc nhạy cảm với rủi ro hơn có thể giảm đáng kể sự chênh lệch giữa các chi phí vốn tiêu chuẩn của Basel 1 và rủi ro tín dụng thật sư của những người tham gia và tài sản. Nó phân biệt rủi ro dựa theo uy tín tín dụng của người đi vay và những đảm bào tùy giao dịch.

Hiệp ước mới bao gồm ba trụ chính:


  • Trụ 1: yếu cầu vốn tối thiểu

  • Trụ 2: quá trình giám sát kiểm tra

  • Trụ 3: kỷ luật thị trường
Hiệp Ước Basel

        Hiệp Ước đưa ba cách tiếp cận chính đối với trụ 1: cách tiếp cận “tiêu chuẩn hóa” và các cách tiếp cận “cơ sở” và “cao cấp” dựa trên xếp hạng nội bộ. Một đặc điểm nổi bật của Basel 2 là dựa trên xếp hạng tín dụng để làm cho vốn nhạy với rủi ro hơn. Chi có các cách tiếp cận cơ sở và cao cấp sử dụng xếp hạng tín dụng nội bộ do các ngân hàng ân định cho những đối tác, trong khi cách tiếp cận tiêu chuẩn hóa dựa trên xếp hạng của bên ngoài nếu có thể.

        Cách tiếp cận tiêu chuẩn hóa chỉ được dụng cho các ngân hàng không có hệ thống xếp hạng tín dụng hợp lệ và chi phí vốn sẽ được quyết định bởi các quy tắc giám sát trong trường hợp này. Basel 2 công nhận nhiều dạng đảm bảo để giảm chi phí vốn hơn. Đây là phần “giảm thiểu rủi ro tín dụng” (CRM) cuả Basel 2.

       Trụ 1 nói về xử lý vốn. Đối với xử lý vốn, các hạng mục tài sản là điểm bắt đầu. Mỗi danh mục đầu tư của một ngân hàng được chỉ định một hạng mục tài sản. Chi phí với rủi ro bắt đầu từ đó và phụ thuộc vào xếp hạng tín dụng của người đi vay và CRM theo hạng mục tài sản cùng với những nhân tố khác. Cho vay chuyên dụng và chứng khoán hóa có những cách xử lý vốn đặc biệt.

         Phép tính vốn dựa trên trọng số rủi ro giống như Basel 1. Trọng số rủi ro 100% ứng với tỷ lệ vốn so với giá trị tài sản là 8%. Chi phí vốn được tính là:

Vốn = trọng số rủi ro x nguy cơ x 8%

        Các trọng số rủi ro, theo cách tiếp cận dựa trên xếp hạng nội bộ, dựa vào các thành phần rủi ro tín dụng trừ với cho vay chuyên dụng và chứng khoán hóa, những thành phần chính bao gồm: kích cỡ nguy cơ, xác suất vỡ nợ, và thua lỗ khi vỡ nợ sau phục hồi. Hiệp Ước Basel 2 đòi hỏi dùng rất nhiều dữ liệu rủi ro tín dụng và áp đặt một sự tăng cường đáng kể với những dữ liệu hiện có. Nó mờ rộng phạm vi và chất lượng của dữ liệu cần thiết. Đối với rủi ro hoạt động, dữliệu rủi ro phải được thu thập dựa theo một sự phân loại rủi ro mới vì những mục đích định lượng.



Từ khóa tìm kiếm nhiều: quan ly rui ro